Quá trình nghiên cứu Hiệu_ứng_Haldane

Bằng cách xem xét tất cả những trường hợp tử vong hoặc bại liệt, John Scott Haldane nhận ra rằng tất cả những thợ lặn làm việc ở độ sâu không quá 10 m (33 ft) thì không ai mắc phải bệnh giảm áp.

Trong buổi thuyết trình trước Hội đồng Y học Hoàng gia Anh, Haldane nói: "Nếu một thợ lặn xuống sâu 100 m (330 ft) thì khi ngoi lên, anh ta chỉ lên đến 70 m (230 ft) và dừng lại trong một khoảng thời gian rồi tiếp tục lên 30 m (98 ft). Tại độ sâu đó, anh ta dừng lại thêm một lần nữa để cơ thể điều chỉnh khí nitơ rồi mới ngoi lên mặt nước thì các tai biến sẽ không bao giờ xảy ra. Đây chính là lý thuyết giải nén".

Theo đề nghị của Haldane, Hải quân Hoàng gia Anh cho ông toàn quyền sử dụng phòng thí nghiệm của Viện Y học dự phòng Lister ở London với sự cộng tác của trung uý Guybon Damant, một chuyên gia lặn biển thuộc Hải quân Hoàng gia Anh và nhà sinh lý học Edwin Arthur Boycott.

Thoạt đầu, Haldane cùng cộng sự tiến hành thực nghiệm giảm áp trên chuột lang bằng cách đặt chúng vào một bình kín với áp suất tương đương 30 m (98 ft) dưới biển. Thế nhưng kết quả thu được lại không thể giúp Haldane đưa ra kết luận vì hệ hô hấp của chuột lang trao đổi khí nhanh hơn rất nhiều so với cơ thể con người. Vì vậy, Haldane thay thế chuột lang, bằng khỉ, chólợn nhưng tần số hô hấp của 3 loài vật này cũng khác xa con người. Cuối cùng, nhóm nghiên cứu chọn loài vì sự hít thở của nó bằng 1,7 lần so với một thanh niên trưởng thành.

Trong lần thí nghiệm đầu tiên, 85 con dê được chuyển đến Viện Y học dự phòng Lister. Bằng cách đặt từng 8 con một vào trong buồng kín, Haldane cho áp suất không khí tăng lên bằng với độ sâu 30 m (98 ft) dưới nước. Tiếp theo, ông tăng độ sâu lên 50 m (160 ft), 100 m (330 ft) và 150 m (490 ft). Qua quan sát, Haldane cùng hai cộng sự nhận thấy cũng như con người, loài dê có các triệu chứng khác nhau của bệnh giảm áp. Một số con khi đưa trở lại môi trường không khí bình thường thì nó không ăn uống, không đi đứng được, một số con chết trong đau đớn còn nhiều con khác bị liệt tạm thời hoặc liệt vĩnh viễn. Kết quả mổ xác cho thấy hầu hết những con dê thí nghiệm đều bị tổn thương ở các khớp, phổi và não bị phù do các bóng khí nitơ.

Cuối cùng, trong số 150 con dê thí nghiệm, chỉ có 1 con duy nhất sống sót nhưng nó đã giúp Haldane, Guybon Damant và Edwin Arthur Boycott xác định được khoảng thời gian "nghỉ" giữa các độ sâu là bao nhiêu. Bước tiếp theo là thí nghiệm trực tiếp trên con người, và người tình nguyện là trung úy Andrew Catto, một thợ lặn dày dạn kinh nghiệm của Hải quân Hoàng gia Anh.[1]